article image

So sánh Polkadot với Avalanche, Cosmos

Polkadot

26/04/2022

947

So sánh Polkadot với Avalanche, Cosmos

 

Tổng quan

Vấn đề về hiệu suất, khả năng mở rộng, phi tập trung, bảo mât của các mạng tiền điện tử thế hệ đầu tiên như Bitcoin và Ethereum đang là một vấn đề nan giải. Để giải quyết các vấn đề hiện tại, Ethereum đã ra mắt một phiên bản mới và các giải pháp cho Layer 2 tương ứng.

Tuy nhiên, ngày nay nhiều dự án theo đuổi giấc mơ Multi-chain Network để mở rộng quy mô, tương tác giữa nhiều blockchain, nhưng những cái tên nổi bật thì không nhiều, Avalanche, Polkadot và Cosmos chính là những cái tên triển khai giải pháp này một cách thành công nhất.

Mục tiêu cuối cùng của Polkadot, Avalanche hay Cosmos đều hướng đến đó chính là xây dựng một mạng “ Internet Blockchai” là nơi mà hàng triệu người dùng thay vì chỉ vài trăm ngàn người dùng đang sử dụng và cho thấy tầm quan trong của Web 3 với tầm nhìn” Internet được sở hữu và kiểm soát bởi người dùng”. 

 

 

 Interchain Economic Security Topology for Cosmos, Polkadot and Avalanche

 

Nếu như Bitcoin ngày nay nghiễm nhiên với danh xưng “ Vàng kĩ thuật số” , còn Ethereum mở ra thời đại mới của nền “programmable internet money” và trở thành một thành trì kiên cố cho sự đổi mới kinh tế tiền điện tử. Nhưng Bitcoin, Ethereum và hàng loạt biến thể của chúng vẫn còn rất nhiều rào cản để có thể tiến sâu vào thị trường hiện tai. Trong bài viết này, trước tiên sẽ đưa ra cái nhìn khách quan về những rào cản mà Bitcoin, Ethereum đang gặp phải và sau đó so sánh các nền tảng Blockchain thế hệ mới được gọi là”Interable multi-chain network” .

Energy Efficiency

Với cơ chế hoạt động của một mạng máy tính phi tập trung” Decentralized computer network”, một mạng blockchain yêu cầu cần phải có khả năng duy trì, xử lý các lỗi phát sinh và sự đồng thuận với các thông tin không đầy đủ hoặc các nodes độc hại( Byzantine Fault Tellerance).Đồng thời mạng lưới blockchain cần đảm bảo tính phi tập trung, cho phép nhiều nodes tham gia vào sự đồng thuận nhưng mạng vẫn cần đảm bảo tránh các thực thể tương tự hoạt động với nhiều danh tính( Sybil attacks).- những điều này đạt được thông qua một phương thức được gọi là Proof of Work( PoW;  được ra mắt vào năm 1992 bởi Cynthia Dwork, ban đầu được sử dụng để ngăn chặn thư rác. PoW yêu cầu các nodes cần sử dụng nhiều năng lượng để tính toàn, từ đó dẫn đến sự nóng lên toàn cầu. Việc duy trì bảo mật phi tập trung  đòi hỏi mạng máy tính phi tập trung một chi phí kinh tế rất lớn. Một dự án Blockchain mới thay thế cho PoW với bằng chứng cổ phần  được gọi là Proof of Stake( PoS). Các validator xác nhận các nodes đòi hỏi những người tham gia vào mạng lưới gửi và lock tokens. Để ngăn chặn các hành vi gian lận đòi hỏi cơ chế này cần phải phát huy hiệu quả và đủ mạnh. Trên thực tế, 2 cơ chế PoW và PoS áp dụng trên cùng một nguyên tắc chung: Chi phí của một node xác thực  từ chi tiêu hoạt động( OPEX) sang chi tiêu vốn(CAPEX).

Transaction Transparency - Giao dịch minh bạch

Bitcoin, Ethereum và các biến thể đều sử dụng trên cơ chế đồng thuận Nakamoto và các giao dịch được gửi không thể thay đổi cho đến khi số block được tạo.Các loại blockchains này có sẵn rất nhiều nhưng rất chậm vì chúng cần phải được xác nhận và đợi cho đến khi blockchain đủ dài. Để tăng tốc độ xác nhận, nhiều dự án blockchain sử dụng sự đồng thuận về khả năng chịu lỗi bao·( PBFT) thực tế cổ điển, tuy nhiên điều này mang đến nhiều vấn đề khác như: thang đo của các nodes có thể làm chậm mạng, khiến mạng ưu tiên bảo mật hơn thời gian hoạt động và hoạt động.  

Computational throughput - Thông lượng tính toán

Thông lượng( Throughput) là lượng công việc tính toán mà một mạng máy tính phân tán có thể hoàn thành mỗi giây và nó xác định dụng lượng của mạng.Thông lượng được cung cấp bởi các nodes, và thông lượng thực tế của mạng đề cập đến lượng công việc tính toán, mạng có thể xử lý mỗi giây.

Có 2 cách để cải thiện thông lượng. Một là chiến lược mở rộng dọc( the vertical expansion strategy) , yêu cầu các nodes có hiệu suất tính toán cao và yêu cầu phần mềm nodes được tối ưu hóa; Thứ hai là chiến lược mở rộng ngang( the horizontal expansion strategy), phân chia mạng thành nhiều thành phần và xử lý giao dịch song song.

Chi phí giao dịch

Blockchain phải giới hạn số lượng thực thi, nếu không các nodes đang chạy trên blockchain rất dễ bị tấn công DoS. Vì lý do này, Bitcoin chỉ hỗ trợ một số ít ngôn ngữ và Ethereum sẽ tính phí giao dịch dựa trên việc đo lường phí gas thực hiện bởi smart contract.Vấn đề là liệu giao dịch của bạn là một khoản chuyển đơn giản hoặc tính toán phức tạp hay không, tất cả chúng đều được thực hiện bởi cùng một mạng.

Do đó, khi lưu lượng mạng tăng lên, phí gas cho các giao dịch đơn giản cũng tăng lên, và chỉ những giao dịch có ngân sách tốt mới đủ khả năng. Lệ phí được trả cho các miners như một động lực để ưu tiên giao dịch.

Trong mạng Bitcoin, sau khi phát hành Bitcoin đến giới hạn 21 triệu, phí xử lý giao dịch là phí duy nhất, trong khi ở Ethereum , phí xử lý giao dịch được sử dụng hoàn toàn cho các giao dịch ưu tiên.

Ở các thế hệ Blockchain mới hiện nay, áp dụng cơ chế đốt phí nhiều hơn. Gần đây, Ethereum cũng đã bắt đầu giảm một số loại phí. Bằng cách này, khi hoạt động mạng tăng lên, sự khan hiếm token sẽ tăng lên, điều này sẽ có lợi cho tất cả những người sở hữu token.

Mức độ phân cấp
Hiện nay công suất của các Mining pools( tính đến 11/2021, 90% công suất tính toán của Bitcoin được kiểm soát bởi 11 nhóm khai thác, và 90% công suất tính toán của Ethereum được kiểm soát bởi 16 nhóm khai thác), mức độ phân cấp của Bitcoin và Ethereum thực sự rất thấp.

Trong cơ chế đồng thuận của Nakamoto, vì chi phí khai thác tăng lên, độ khó của việc sản xuất các block tăng lên, việc tính toán trở nên ngày càng phức tạp. Đối mặt với vấn đề này, hàng loạt các dự án blockchain mới đã ra đời để giải quyết các vấn đề này.

 

Địa chỉ ví hoạt động hàng ngày.

Nguồn dữ liệu: etherscan.io

Hiện tại, Ethereum có 500.000 địa chỉ ví hoạt động hàng ngày. Thực tế hiện nay, Twitter có 200 triệu người dùng tích cực hàng ngày( 400 lần so với Ethereum) và Facebook có gần 2 tỷ người dùng hàng ngày( 4.000 lần so với Ethereum). Ngay cả việc thêm vào nền tảng L2 và người dùng Bitcoin đều tệ hơn rất nhiều so với các ứng dụng chính này.  Mở rộng hơn là key word trong vấn đề này chính là “ Decentralized Internet” . Đây không phải là vấn đề chúng ta phải đối mặt trong tương lai, nhưng là vấn đề quan trọng cần phải giải quyết ở đây và bây giờ.

Đề giải quyết vấn đề mở rộng, Ethereum cũng đã cho ra mắt một phiên bản mới, tìm cách giải quyết mọi vấn đề ngày càng tăng thông qua giải pháp L2. Đồng thời, các nền tảng Blockchain thế hệ tiếp theo như: Polkadot, Cosmos, Avalanche, đã ra mắt bản Mainnet vào năm 2019 và 2020. Chúng ta lại có hy vọng về một “ decentralized Internet” đích thực một lần nữa. Trước tiên, hãy tìm hiểu phiên bản mới của Ethereum.

 

New version of Ethereum: EVM Ecology

Kể từ khi ra mắt, phiên bản mới của Ethereum đã áp dụng các cơ chế khác nhau và được thực nghiệm trên các nền tảng blockchain. Phiên bản mới của Ethereum sử dụng cơ chế PoS, chia mạng thành các mảnh ghép đồng bộ hóa với hy vọng tăng thông lượng tính toán tổng thể. Các nodes xác thực chạy trên Ethereum Virtual Machine( EVM) sẽ được gán cho các mạng khác nhau,chúng sẽ tạo thành các block, tích lũy dữ liệu hoạt động của người dùng khác nhau, sau đó đồng bộ hóa với nhau thông qua beacon chain.

Mục đích của việc phân đoạn là đề mở rộng, không sao chép tất cả dữ liệu trên toàn mạng. Trong mô hình đồng bộ hoặc trong một mô hình cấu trúc liên kết mạng không đồng nhất, nếu việc sử dụng một shard( ví dụ, một dịch vụ defi rất phổ biến) cao hơn nhiều so với các mảnh ghép khác, nó sẽ tạo ra các vấn đề về tốc độ, chi phí,phạm vi mở rộng…. Vì vậy vấn đề đồng bộ hóa hiệu quả dữ liệu giữa các mảnh ghép là một vấn đề lớn.

Mặc dù Ethereum tuyên bố rằng sẽ mất khoảng 1 năm để chuyển sang phiên bản mới, khi đối mặt với nhu cầu của người dùng, các giải pháp L2 như rollup( Optimistic, skSync), plasma và các giải pháp được khởi động để nâng cao hiệu quả và tốc độ. Vấn đề là mô hình ủy thác L2 yêu cầu việc sử dụng nodes trung tâm như một trung gian hoặc sử dụng nhiều nodes cổ đông( Polygon được xây dựng bằng cách sử dụng sự đồng thuận của Tendermint và chạy trên nhiều nodes xác nhận. 

Sớm hay muộn, các cơ sở hạ tầng của các chuỗi đơn này sẽ phải đối mặt với các vấn đề về chi phí giao dịch tương tự vì số lượng người dùng ngày càng tăng lên.

So sánh Polkadot với Avalanche, Cosmos

Cosmos, Polkadot và Avalanche có những điểm tương đồng cũng có rất nhiều khác biệt. Bài viết này không nhằm mục đích là một bài nghiên cứu  chuyên sâu, mà là một cái nhìn tổng quan dựa trên một số tiêu chí mà tôi cảm thấy là quan trọng nhất. Blockchain sẽ hoàn toàn cách mạng hóa hầu hết các ngành công nghiệp và có ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới mà chúng ta biết ngày nay. Vẫn còn rất sớm trong không gian này với hầu hết việc áp dụng giới hạn trong đầu cơ và giao dịch chủ yếu là do những hạn chế của blockchain và lần lặp hiện tại của Ethereum, mà cả ba nền tảng này đều hy vọng sẽ giải quyết..

Avalanche, Cosmos và Polkadot là các nền tảng blockchain được tạo ra với mục đích giải quyết các vấn đề của Ethereum như phí giao dịch cao, tốc độ chậm và khả năng mở rộng kém. Tuy nhiên, mỗi blockchain có một cách tiếp cận khác nhau cho vấn đề, do đó mang lại những trải nghiệm và lợi ích khác nhau cho người dùng.



 Tiêu chí

Polkadot

Avalanche

Cosmos

Định nghĩa

Polkadot là một nền tảng blockchain Layer 0, đóng vai trò kết nối các blockchain L1 lại với nhau để chia sẻ dữ liệu và tạo thành một mạng lưới thống nhất.

Avalanche được xem là một nền tảng mã nguồn mở cho phép triển khai các ứng dụng tài chính phi tập trung, tài sản tài chính, kĩ thuật số cùng nhiều dịch vụ khác.

Cosmos(hay Cosmos Network) là một blockchain nền tảng với cơ chế đồng thuận Tendermint. Không giống với các blockchain (L1) khác là nền tảng để xây dựng Dapp trên đó, thì Cosmos có thể coi như một Layer 0 và trên đó là các Layer 1.

Công cụ nổi bật

Parachain: Là giải pháp mở rộng mạng lưới của Polkadot. Parachain không nhất thiết là một Blockchain. Nó có thể là Dapp (ứng dụng phi tập trung) hay một Data Structure (cấu trúc dữ liệu), miễn sao nó có thể cung cấp bằng chứng có thể được xác thực bởi các Validators được gán cho Parachain đó. Các Parachain có thể hoạt động độc lập song song, tương tác với nhau nhờ giao thức Cross-Chain Message Passing (XCMP). Polkadot cũng cung cấp bộ cung cụ Subtrate để có thể dễ dàng xây dựng các Parachain.

Subnet(hay Subnetwork) là một tính năng trên Avalanche cho phép bất kì ai có thể tạo một blockchain L1 của riêng họ, một subnet có thể là một blockchain được tùy chỉnh riêng biệt hoặc cũng có thể là một nhóm các blockchain cùng được xác thực (Validate) bởi một nhóm validator chung. Mọi validator của các Subnet đều phải là thành viên của Primary Network của Avalanche bằng cách stake AVAX.

Inter Blockchain Communication (IBC): Là giao thức giao tiếp xuyên chuỗi của Cosmos, giúp Cosmos Network thực hiện hóa tầm nhìn “Internet of Blockchain”.

Cơ bản, có thể xem Inter Blockchain Communication (IBC) là các hệ thống đường cao tốc giúp kết nối các blockchain riêng riêng trong Cosmos .

Ở cấp độ cao hơn, IBC là một giao thức giao tiếp xuyên chuỗi, nó cho phép các blockchain riêng biệt trong Cosmos Network chuyển token và dữ liệu tùy ý giữa nhau.

Phí giao dịch

Polkadot có cơ chế phí mỗi chuỗi có thể được tùy chỉnh. Lệ phí được tính trước với hệ thống Weight. Phí gas thì được tùy chọn với mỗi chuỗi.

Avalanche có cơ chế phí mỗi chuỗi có thể tùy chỉnh. Phí Mainnet được cố định hoặc bằng 0 cho một số chức năng khác nhau và toàn bộ phí bị đốt để người giữ token được hưởng lợi từ việc nắm giữ theo thời gian> hơi đắt

Cosmos có cơ chế phí trên mỗi chuỗi có thể linh hoạt tùy chỉnh

Validators

Hiện tại Polkadot có 297 validators đang hoạt động trên Polkadot và 1000 Validators trên Kusama. Hiện tại, cần tối thiểu 1.75 triệu DOT( ~ $ 33 M) để trở thành 1 Polkadot Validators và ít nhất 120 DOT để được để cử. TVL~ 12B.

Avalanche hiện tại có 1311 validators trên Main Network. Để trở thành 1 validator trên Main Network cần tối thiểu 2000 AVAX(~ $160K) để ủy quyền.

TVL~ $16B

Cosmos hiện có 150 validators trong Cosmos, 115 Validators ở IRIS và 100 Validators tại Osmosis. Hiện tại để trở thành 1 Cosmos Hub Validator bạn cần tối thiểu 147,231 ATOM(~1.3M)  và tối thiểu  1 ATOM để ủy quyền. TLV~ $5B

Khả năng mở rộng

Parachain của Polkadot cũng có khả năng đạt được 1500 TPS, nhỉnh hơn chút so với Cosmos, nhưng do giới hạn của số lượng validator, số lượng Parachain tối đa chỉ được 100. Đây là một yếu điểm về khả năng mở rộng trong dài hạn của Polkadot so với Avalanche và Cosmos.

Avalanche có thể đạt được 4500 TPS (số lượng giao dịch mỗi giây) trên mỗi subnet, điều này có thể đạt được dù yêu cầu về phần cứng là khá khiêm tốn để đảm bảo sự phi tập trung. Hiệu suất của mạng lưới bị giới hạn bởi CPU, do đó nếu có những phần cứng chuyên dụng, TPS có thể đạt được lên tới 10,000+.

Số lượng subnet có thể được tạo ra là không giới hạn, để trở thành validator của một hoặc một vài subnet trước tiên cần là validator của mạng chính. Avalanche hướng tới mục tiêu có càng nhiều subnet hoạt động càng tốt, và tất nhiên chúng có thể tương tác với nhau.

 

Mỗi Hub hoặc Zone của Cosmos có khả năngđạt được khoảng 1000 TPS. Số giao dịch mạng lưới có thể xử lí mỗi giây không phải là một điểm mạnh của Cosmos.

Cosmos cũng đặt mục tiêu có hàng nghìn Zone/Hub kết nối với nhau qua IBC, số lượng Zone hoặc Hub có thể được tạo ra cũng là không giới hạn.

 

Mức độ phi tập trung

 

Theo cơ chế hoạt động, các validator của mạng Relay Chain sẽ là các validator chính, và sau đó tách thành các nhóm nhỏ validate các Parachain. Vì số lượng validator trên Relay Chain là giới hạn, nên số lượng Parachain cũng là giới hạn (Tối đa 1000 validator ở mạng chính). Do số lượng Parachain là giới hạn, các dự án muốn hoạt động trên Parachain cần tham gia đấu giá và sẽ phải bỏ ra một số tiền (DOT) lớn để cạnh tranh các slot này.

Hiện tại số lượng validator của Polkadot là 297 và 1000 ở Kusama, số tiền tối thiểu để trở thành validator là 1.75 triệu DOT (~$33M), để chỉ định validator để stake cần 120 DOT.

Tổng giá trị tài sản đang được stake của Polkadot là khoảng 14 tỉ đô.

 

Với cơ chế đồng thuận Avalanche, mạng lưới này có thể có thể mở rộng tới 10 nghìn validator, càng nhiều validator thì mạng lưới càng nhanh và bảo mật. Do điều kiện yêu cầu về phần cứng không cao nên hầu như ai cũng có thể chạy node và tất nhiên ai cũng có thể tạo một subnet riêng.

Hiện tại mạng lưới Avalanche đang có hơn 1,200 validator đang hoạt động. Để trở thành validator của mạng chính cũng như một subnet, anh em sẽ cần tối thiểu 2000 AVAX (~$180,000), còn nếu muốn ủy thác cho validator khác, con số này chỉ còn tối thiểu 25 AVAX.

Tổng giá trị AVAX đang được stake rơi vào khoảng 21 tỉ đô.

 

Cơ chế đồng thuận Tendermint của Cosmos giới hạn số lượng validator ở mức 300 để đảm bảo hiệu suất. Cosmos Hub cũng chỉ là một trong rất nhiều Hubs trên mạng lưới. Cosmos cũng không có Hub nào là Central Hub như Main Network của Avalanche hay Relay Chain của Polkadot, và ai cũng có thể tạo Zone/Hub.

Theo số liệu mới nhất, số lượng validator của Cosmos là 209, IRIS Network là 197, Osmosis có 118,... Để trở thành một active validator của Cosmos Hub,  sẽ cần tối thiểu ~147,000 ATOM (~$1.3M). Để tham gia ủy thác, anh em chỉ cần 1 ATOM.

Tổng giá trị tài sản đang được stake của Cosmos là 5 tỉ đô.

 

Độ trễ của giao dịch

Polkadot sử dụng giao thức đồng thuận Hydrid và đạt được độ trễ giao dịch vào mức khoảng 6 giây khi tương tác giữa các Parachain nhưng để tương tác với các blockchain khác, con số này có thể lên đến 1 phút.

 

Avalanche Consensus giúp mạng lưới hoàn thành một giao dịch trong khoảng 3 giây, thậm chí hầu hết là trong 1 giây. Các subnet trong đó có thể giao tiếp trực tiếp với nhau.

 

Tendermint của Cosmos có thể hoàn thành giao dịch trong khoảng 6-7 giây. Việc giao tiếp lẫn nhau từ Zone/Hub này sang Zone/Hub kia trong Cosmos sẽ phải đi qua nhiều Zone/Hub khác, độ trễ giao dịch sẽ bị cộng thêm phụ thuộc vào lộ trình đi. 




Chia sẻ bảo mật

 

Một trong những cơ chế đặc biệt của Polkadot là việc bắt buộc Shared Security, nhờ việc Relay Chain validate tất cả trạng thái giao dịch của các Parachain được kết nối. Điều này giúp cho các chain một khi được kết nối có thể dễ dàng chuyển data qua lại, các parachain cũng không cần tự xây dựng cộng đồng validator mà có thể kế thừa bảo mật từ Relay Chain.

Một subnet của Avalanche bao gồm một set validator cùng hoạt động, làm việc cùng nhau để đạt được sự đồng thuận trên một hoặc một nhóm blockchain. Một subnet có thể validate một hoặc nhiều blockchain chỉ với một set validator. Mỗi một validator trong subnet cũng sẽ là một validator thuộc mạng chính. Việc chia sẻ bảo mật giữa các chain là không bắt buộc (optional).

Trong hệ sinh thái của Cosmos, các blockchain khác nhau với cấu trúc khác nhau và mục đích khác nhau sẽ có các set validator riêng, các chain này giao tiếp với nhau qua bridge khi cần thiết. Cấu trúc này làm cho khi một chain với bảo mật cao hơn nhận tài sản từ chain có bảo mật kém thì chain đó sẽ bị giảm bớt độ bảo mật.

Khả năng tương tác

 

Khả năng mở rộng của Polkadot đến từ Parachain, các chain này có truyền dữ liệu do cùng kế thừa bảo mật từ Relay Chain, để phục vụ việc tương tác và chuyển tài sản giữa các Parachain, Polkadot phát triển giao thức Cross-Chain Message Passing (XCMP). Ngoài ra, Polkadot cũng có thể kết nối tới các chain khác thông qua các bridge chuyên dụng.

Một subnet có thể validate nhiều blockchain, các blockchain/VMs (máy ảo) trong cùng một subnet cùng chia sẻ validator set và cùng sử dụng Avalanche Consensus (Cơ chế đồng thuận Avalanche), từ đó cho phép tương tác cross-chain trong subnet. Avalanche có hỗ trợ nhiều loại máy ảo khác nhau, nên có thể tương tác với các hệ sinh thái khác nhờ việc kết nối bridge với các máy ảo đó.

Cosmos kết nối các Zone và Hub với nhau nhờ có IBC (được ra mắt vào Q1 2020). Các chain trong Cosmos cần phải tích hợp với IBC để có thể bridge tài sản qua các chain khác trong mạng lưới IBC. Bridge sang các chain ngoài như Ethereum hay Bitcoin đang trong quá trình phát triển (gần đây đã có Gravity Bridge).

Tokenomics

 

DOT là native token của Polkadot, DOT chủ yếu được dùng làm phí giao dịch, staking để làm validator nhận phần thưởng, một lượng lớn DOT sẽ được các dự án dùng để tham gia đấu giá các slot parachain. Mỗi Parachain đều có cấu trúc token riêng. DOT cũng là một token lạm phát và không có tổng cung giới hạn. Mỗi năm tổng cung sẽ lạm phát khoảng 10% tùy thuộc vào tỉ lệ stake, tương tự như ATOM.

Hiện tại tổng cung DOT đã đạt hơn 1.1 tỉ token, market cap ở mức 23 tỉ đô.

 

AVAX là token chính của mạng lưới Avalanche. Mỗi validator của subnet cũng đều là validator của mạng chính, bắt buộc phải stake 2000 AVAX. Vì số lượng subnet không giới hạn, điều này có thể làm giảm đáng kể nguồn cung của AVAX.

Thêm nữa, AVAX là một token có tổng cung cố định 720 triệu token, các loại chi phí như phí giao dịch, phí tạo blockchain mới đều được trả bằng AVAX và số AVAX này sẽ bị đốt, đồng nghĩa AVAX là một token giảm phát.

Hiện tại tổng cung của AVAX ở mức 377 triệu token, market cap ở mức 25.5 tỉ. Ngoài ra, trên mỗi subnet có thể tự tùy chỉnh cấu trúc phí của mạng lưới.

 

ATOM là native token của Cosmos Hub, có thể được dùng để trả phí giao dịch, staking nhận phần thưởng, tham gia quản trị trong Cosmos Hub.

Một số người nhầm tưởng ATOM là token chính của cả hệ sinh thái Cosmos, nhưng thực chất ATOM chỉ là token của Cosmos Hub, một trong số rất nhiều Hub của Cosmos. Mỗi Hub/Zone đều có token riêng và hiện chưa có liên quan đến ATOM. ATOM cũng là một token lạm phát tăng dần theo năm ở mức khoảng 10% tùy theo tỉ lệ stake. Tổng cung của ATOM hiện tại khoảng 291 triệu đô, market cap hiện tại khoảng 8.2 tỉ đô.

 

Mức độ phổ biến hiện tại

 

Polkadot bắt đầu chạy từ 2016 và đã tổ chức ICO từ tháng 10 năm 2017. Hiện tại có khoảng hơn 60 dự án được xây dựng trên Subtrate, tương tự như Cosmos, không phải dự án nào được xây trên Subtrate cũng đều kết nối với Polkadot hay Parachain. Hiện tại trên Polkadot đã có 13 dự án đang chạy Parachain, trên Kusama có 30 dự án.

Parachain cũng không phải là một lựa chọn tốt cho các công ty, tổ chức truyền thống lớn do phải khóa một lượng lớn tài sản có độ biến động mà cũng chưa chắc chắn khả năng có slot, cộng thêm việc không thể tùy chọn các yêu cầu cho validator.

 

Ava Labs được thành lập vào năm 2018, Avalanche ICO được tổ chức vào tháng 7 năm 2020. Sau 18 tháng hoạt động, hiện trên Avalanche C-Chain đã có 458+ dự án, trải dài trong tất cả các mảng. Tuy nhiên, trái lại với hệ sinh thái đầy đủ trên C-Chain, các subnet của Avalanche mới đang ở giai đoạn bắt đầu, mới chỉ có một vài subnet đầu tiên và đa phần đều ở giai đoạn testnet.

Ngoài ra, do các đặc điểm có thể tạo tùy ý các blockchain private hoặc public, áp dụng các yêu cầu đặc biệt để tham gia một subnet, Avalanche tỏ ra phù hợp cho các công ty truyền thống lớn tham gia vào thị trường DeFi. Hiện đang có khá nhiều công ty lớn thông báo hợp tác với Ava Labs để tạo private chain riêng, trong đó có Deloitte, Master Card,...

 

Dự án Cosmos bắt đầu vào năm 2016 và tổ chức ICO vào tháng 4 năm 2017. Trong vũ trụ của Cosmos hiện có 42 Zone đã kết nối với IBC và có thể tương tác qua lại, ngoài ra có khoảng 80 dự án được xây dựng trên bộ khung Cosmos SDK. Các dự án không bắt buộc phải được xây trên Cosmos SDK hay kết nối với IBC (Như Binance Chain cũ hay BNB Beacon Chain hiện tại).

Cơ chế đồng thuận

Hybrid Consensus

Avalanche Consensus

Tendermint

Công cụ hỗ trợ dev

Substrate

Avalanche Virtual Machine, cung cấp các loại máy ảo khi build các blockchain trên subnet.

Tendermint và Cosmos SDK

Ecology

Polkadot: Kể từ khi ra mắt dự án này, nó đã nhanh chóng thu hút rất nhiều sự quan tâm từ nhiều quỹ đầu tư tuyên bố giữ DOT. Tuy nhiên, gần đây, giá DOT đã giảm liên tục, điều này cho thấy HST Polkadot không thực sự thu hút người dùng, các mảnh ghép của Defi không đủ để giữ dòng tiền.

Avalanche  tiếp tục cho thấy tiềm năng lớn khi gần đây đã thu hút được 290 triệu đô la đầu tư vào subnet. 

Hệ sinh thái Cosmos về cơ bản  là đầy đủ các mảnh ghép và phát triển mạnh mẽ để giữ dòng tiền. Với dòng tiền đầu tư 400 triệu đô la gần đây, nó đã thể hiện triển vọng đầy tiềm năng của blockchain này.

 

Tóm tắt

Cả ba nền tảng đều cung cấp hiệu suất vượt xa các nền tảng như Bitcoin và Ethereum 1.0. Avalanche có khối lượng giao dịch mỗi giây cao hơn, không có giới hạn về số lượng mạng con / blockchains có thể được tạo và sự đồng thuận có thể mở rộng đến hàng triệu validators tiềm năng. Polkadot tuyên bố cung cấp nhiều tps hơn Cosmos, nhưng bị giới hạn ở số lượng parachains (khoảng 100), trong khi Cosmos không có giới hạn về số lượng có thể được tạo. Cosmos bị giới hạn ở kích thước trình xác thực khá nhỏ khoảng 200 trước khi hiệu suất giảm xuống, trong khi Polkadot hy vọng đạt được 1000 trình xác nhận trong chuỗi chuyển tiếp (mặc dù chỉ một số lượng nhỏ trình xác nhận được phân bổ cho mỗi parachain).

 

Dislcaimer:Tất cả thông tin ở đây chỉ để tham khảo, không phải tư vấn đầu tư. Hy vọng rằng, thông tin mà chúng tôi đã thu thập trong bài viết này sẽ hữu ích cho bạn.Chúc bạn sáng suốt và tỉnh táo để đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn nhé!




 

tag: So sánh Polkadot với Avalanche, Cosmos

admin avatar

Mia O'Hara Tác giả

Yêu thích công nghệ tiền ảo và các lĩnh vực công nghệ liên quan tới blockchain. Muốn mang lại kiến thức và tin tức mới nhất tới người Việt.

Bài viên liên quan

Để lại bình luận

Địa chỉ mail của bạn sẽ không công khai. Các ô có dấu * yêu cầu bắt buộc phải điền.